Thoát án lạ lùng vì tâm thần (Kỳ cuối)

Dan White bị kết tội ngộ sát, một bản án nhẹ hơn nhiều so với hành vi hắn gây ra.

Cuối năm 1843, sau phiên tòa xét xử Daniel M’ Nagthen, "Luật M'Naghten" do Thượng viện đề xuất bắt đầu được nhiều người trong ngành tư pháp Mỹ biết đến. Bên cạnh sự cần thiết khi ra đời của nó, các quy định trong luật này không tránh khỏi những chỉ trích.

Theo một số học giả, những quy định là quá cứng nhắc, không bỏ qua bất kỳ hành vị phạm tội nào ngoại trừ những hành vi liên quan đến bệnh tâm thần.

Nhiều người cho rằng các quy định nên linh hoạt hơn.

Năm 1886, một số tiêu chí trong việc "bảo vệ" các bị cáo tâm thần được bổ sung.

Tòa án quyết định, bị cáo có thể đưa ra lý do hành động gây án của mình liên quan đến vấn đề tâm thần nêu họ và luật sư của họ chứng minh được rằng do vấn đề tâm thần đã cưỡng ép hành động khiến họ không nhận biết được điều đó đúng hay sai.

Viện Luật pháp Mỹ (ALI) nghiên cứu và đưa ra Bộ luật Hình sự vào năm 1970, được thông qua bởi một số bang, với mong muốn giải quyết những “xung đột” trong những vụ xét xử các bị cáo tâm thần.

Theo đó, một bị cáo sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự nếu tại thời điểm thực hiện hành vi, hành vi được cho là kết quả của dấu hiệu tâm thần hay thiểu năng.

Theo bác sĩ người Anh, John Arbuthnot (1667-1735), “Luật là một cái hố không đáy.”

Quay trở lại với vụ án diễn ra tại San Francisco năm 1979, cựu sĩ quan cảnh sát Dan White bị buộc tội giết ngài thị trưởng George Moscone và trợ lý Harvey Milk.

Dan White đã thoát án giết người ở cấp độ 1 với lý do bị bệnh trầm cảm và chứng mất trí nhớ tạm thời.

Dan White bị kết tội ngộ sát, một bản án nhẹ hơn nhiều so với hành vi hắn gây ra.

Quyết định của tòa án đã gây nên một cuộc bạo loạn của những người đồng tính bảo vệ Harvey Milk ở San Francisco.

Dan White bị kết án 5 năm tù cho việc giết hai người. Năm 1985, hắn được tạm tha, nhưng lại tự từ một vài tháng sau đó.

Một trong những vụ án còn nổi tiếng hơn vụ Dan White liên quan tới những bị cáo có dấu hiệu tâm thần diễn ra tại thành phố New York cuối những năm 1970.

Sĩ quan Robert Torsney, 34 tuổi, đã lên một kế hoạch lớn vào ngày lễ tạ ơn cùng gia đình. Nhưng đêm hôm đó, Robert Torsney và đồng nghiệp của mình bất ngờ nhận được điện từ cấp trên điều tham gia một vụ án.

Đối tượng là một thanh niên 15 tuổi tên là Randolph Evans. Theo thông tin ban đầu, Evans có mang theo súng.

Ngay khi tiếp cận Evans, Robert Torsney đã rút súng nhằm về phía Evans để bắn. Evans chết tại chỗ.

Torsney bị bắt ngay sau đó vì cấp trên nhận thấy có sự bất thường khi Torsney ra tay quá nhanh, vụ việc được thông bao rộng rãi trên báo chí.

Tòa xét xử Torsney về tội giết người bắt đầu vào tháng 11 năm 1977.

Torsney đã nói với bác sĩ tâm thần của mình rằng, “Tôi không nói tôi ghét những người da đen, nhưng tôi không thích họ và tôi cảm thấy họ đe dọa cuộc sống của tôi.” 

Tiến sĩ Daniel Schwartz, giám định pháp y tâm thần tại trung tâm nghiên cứu King, một nhân chứng quen thuộc trong các vụ án liên quan đến bệnh nhân tâm thần đã được đề nghị để kiểm tra Torsney trong vụ án này. 

Sau khi kiểm tra Torsney 3 lần,  tiến sĩ Daniel kết luận Torsney đã nổ súng bắn Evans trong cơn động kinh “thuyết Penfield”.

Torsney là một trường hợp hiếm gặp mắc phải căn bệnh này. Tại phiên tòa xét xử, dưới sự “bảo vệ” của Tiến sĩ Daniel, Torsney được tuyên không có tội do hành vi phạm tội có liên quan đến tâm thần và được trả tự do ngay sau đó.

Nhiều năm sau khi thoát án, việc Torsney sống, hoạt động hoàn toàn bình thường đã khiến cho nhiêu người thắc mắc liệu Torsney có thực sự bị bệnh như Tiến sĩ Daniel kết luận tại tòa.

Vấn đề được đặt ra lại liên quan đên những bác sĩ tâm lý, những người trực tiếp đưa ra kết luận bị cáo có dấu hiệu tâm thần tại các phiên tòa.

Các bác sị tâm thần trong hai vụ án của Dan White và Torsney nhận nhiều lời chỉ trích nhất.

Liệu họ có khách quan trong việc đưa ra quyết định? 

Luật sư và các bác sĩ tâm thần đã đựa vào những thiếu sót, những kẻ hở của pháp luật để tạo nên một bị cáo vô tội tại tòa.

Rất nhiều người kêu gọi bãi bỏ những những điều luật được áp dụng nếu bị cáo có liên quan đến bệnh tâm thần.

Trước ý kiến cho rằng, những điều luật liên quan đến bệnh nhân tâm thần chính là “kẽ hở” của luật, 39 bang nướ Mỹ đã có hàng chục sự thay đổi. Tuy nhiên, cho đến ngày nay, việc thống nhất ý kiến của tất cả các bang trong trường hợp bị cáo mắc chứng tâm thần vẫn chưa thể đưa ra những điều luật "hoàn hảo".

Chia sẻ
Gửi góp ý
Theo Mai Tân ( Theo Trutv) ([Tên nguồn])
Thoát án lạ lùng vì tâm thần Xem thêm
Báo lỗi nội dung
GÓP Ý GIAO DIỆN